Quan trường Lương_Như_Hộc

Lương Như Hộc quê ở xã Hồng Liễu, huyện Trường Tân[1] (nay là thôn Thanh Liễu, xã Tân Hưng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ thám hoa khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442 - đời Lê Thái Tông), cùng khoa với Nguyễn Trực, Nguyễn Như ĐổNgô Sĩ Liên[1].Ông làm quan đến chức Thị lang, Gia trung thư lệnh và Đô ngự sử.

Ông đã từng hai lần đi sứ sang nhà Minh. Lần thứ nhất vào ngày 16 tháng 11 âm lịch năm Thái Hòa thứ nhất (Quý Hợi, 1443), đời Lê Nhân Tông, khi đang là Ngự tiền học sinh cục trưởng, ông cùng với Tri chế cáo Nguyễn Như Đổ và Ngự sử trung thừa Hà Phủ được sung vào đoàn sứ bộ sang Minh đáp tạ về việc tế điếu[2][3].

Lần thứ hai vào tháng 10 âm lịch năm Thiên Hưng thứ nhất (1459), sau khi Lê Nghi Dân tiếm ngôi vua, đã sai Lương Như Hộc cùng Trần Phong, Trần Bá Linh sang nhà Minh cầu phong[2][4].

Trong hai cuốn sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mụcĐại Việt sử ký toàn thư, ông đã được nhắc đến nhiều lần:

  • Tháng 11 âm lịch năm Thái Hòa thứ 7 (1449) thời Lê Nhân Tông, ông được thăng từ An phủ phó sứ lộ Quốc Oai Hạ lên Hàn lâm trực học sĩ[2].
  • Tháng 3 âm lịch năm Quang Thuận thứ 4 (1463) thời Lê Thánh Tông: Môn hạ hữu ti lang trung Hoàng Thanh mất. Ông (khi đó là Lễ bộ tả thị lang) đã làm bài tán đề di tượng (tượng truyền thần) của Hoàng Thanh rằng: "Nói về đạo lý, thì uẩn súc bên trong được đầy đủ, thi thố ra ngoài được chu đáo; nói về bổn phận, thì làm con giữ hết đạo hiếu, làm tôi giữ hết đạo trung, từng trải thờ bốn triều vua, tiết tháo một lòng, trước sau không bao giờ thay đổi"[5][6].
  • Tháng 12 âm lịch năm 1463, vua Thánh Tông ban cho ông sắc dụ: ""Mới rồi, Nguyễn Vĩnh Trinh không học thể thơ quốc ngữ, làm thơ không đúng phép. Ta tưởng là ngươi biết, nên mới hỏi thử ngươi, nhưng ngươi cũng không biết nốt. Vả ta xem Hồng Châu quốc ngữ thi tập của ngươi còn nhiều chỗ thất luật, ta chắc là ngươi chưa biết nên mới nói ra. Vũ Lãm thường không muốn ta nói cho ngươi biết đâu"[5].
  • Tháng 7 âm lịch năm 1466: Trung thư sảnh bí thư giám học sĩ Lương Như Hộc tâu rằng: "Các bản chương tấu của các nha môn, nếu gặp lúc viên quan chính thức hiện khuyết hoặc công xuất, thì viên quan tá nhị thừa lệnh giữ ấn tín được phép ký tên ở dưới chỗ đề năm tháng"[5] (Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép việc này vào tháng 8 âm lịch năm 1462[6]). Nhà vua theo lời tâu này[6].
  • Tháng 5 âm lịch năm 1467, câu chuyện đối đáp của ông và một vệ quân có tên Văn Lư đã được hai sách Toàn thư[5] và Cương mục[7] (Cương mục chép là tháng 4) chép lại:
Lúc bấy giờ nhà vua [Thánh Tông] hạ lệnh cho quân ở ngũ phủ chế tạo binh khí theo hình dạng mới, được ít lâu lại bắt đổi theo hình dạng khác. Trong bọn quân nhân có người phàn nàn than thở. Văn Lư, một quân nhân trong vệ Oai Lôi, dâng thư nói: "Tháng giêng năm nay, bệ hạ đã ban ra hình dạng mới về binh khí, bắt quân chế tạo, nay lại thay đổi hình dạng khác, như thế là chính lệnh bất thường". Nhà vua sai bộ Lại dụ bảo Văn Lư rằng: "Binh khí cùng một hình dạng ấy cả, lời nhà ngươi nói chỉ là nói càn mà thôi".

Viên Thị lang Lương Như Hộc nói riêng với Văn Lư rằng: "Nhà ngươi không phải là người giữ chức ngôn luận, sao lại dám nói càn đến việc nước?". Văn Lư trả lời: "Nước lấy dân làm gốc rễ, mà lính là để bảo vệ dân; nay hiệu lệnh trước sau bất nhất, quân và dân đều sầu oán, thế mà ông là người bầy tôi thân cận của nhà vua, lại ngậm miệng, không nói gì, nay Lư này nói ra là yêu vua đấy".

Bọn Như Hộc nghe lời của Văn Lư, yên lặng không nói gì cả.

Các tác giả sách Cương mục đã có lời phê rất nặng: "Xem việc này có thể rõ được: vua thì mắc bệnh hay thay đổi; bầy tôi chỉ quen thói bợ đỡ đón trước cái ý của nhà vua."[7]

  • Tháng 8 âm lịch năm 1467, Lễ bộ thị lang Lương Như Hộc và Nguyễn Đình Mỹ cho là thời tiết thuận hòa, mùa màng bội thu, dân chúng yên vui, muôn vật dồi dào, dâng biểu xin vua tiến tôn phong hiệu. Nhà vua không nhận lời[5][8] (Cương mục chép là tháng 10).
  • Tháng 12 âm lịch năm 1467, do tiến cử Trần Quý Huyên, vua không coi là người giỏi, nên ông bị giam vào ngục. Quý Huyên bị thu mất chức[5]. Cũng tháng 12 năm đấy, Bảo tỉ truyền quốc đã khắc xong, lấy chữ Hoàng đế thụ mệnh chi bảo do ông tham khảo đề xướng[8].
"Trước đây, bàn về việc khắc bảo tỉ truyền quốc, nhà vua bảo bọn tể thần nên dùng những chữ Thiên nam hoàng đế chi bảo. Nguyễn Cư Đạo, quyền Thượng thư Bộ Hộ, cho rằng hai chữ Thiên nam hầu như chữ mới sáng tác, không bằng chữ Thuận thiên thừa vận chi bảo đối với nghĩa được xác đáng hơn. Bí thư giám học sĩ là bọn Lương Như Hộc tâu nói: "Tham khảo trong sách Văn hiến thông khảo thì nên dùng những chữ Hoàng đế thụ mệnh chi bảo". Việc khắc chữ vào bảo tỉ lúc ấy mới quyết định. Nhà vua mới làm lễ cáo nhà thái miếu để khắc chữ. Đến nay bảo tỉ đã khắc xong, lại ra lệnh cho thái sư Đinh Liệt đem lòng kính cẩn của nhà vua làm lễ cáo nhà thái miếu."

Trong suốt cuộc đời làm quan của mình, ông đã làm quan đến Thị lang, Gia trung thư lệnhĐô ngự sử. Lương Như Hộc mất vào năm Tân Dậu (1501), hưởng thọ 82 tuổi.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lương_Như_Hộc http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?... http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?... http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?... http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?... http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?... http://www.haiduong.gov.vn/front-end/article/print... http://www.haiduong.gov.vn/front-end/index.asp?web... http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=547&Cati...